Kris Kristofferson, Huyền thoại nhạc đồng quê và Nam chính ‘A Star Is Born’, qua đời ở tuổi 88

Kris Kristofferson, Huyền thoại nhạc đồng quê và Nam chính ‘A Star Is Born’, qua đời ở tuổi 88

Khi đi sâu vào câu chuyện hấp dẫn của Kris Kristofferson, tôi thấy mình kinh ngạc trước khả năng phục hồi và bền bỉ tuyệt đối mà người đàn ông này sở hữu. Từ chiến trường đến hội trường âm nhạc, anh điều hướng cuộc sống bằng sự can đảm hiếm thấy.


Kris Kristofferson, 88 tuổi, nổi tiếng với công việc tiên phong là nghệ sĩ nhạc đồng quê và diễn viên điện ảnh và truyền hình, đã qua đời thanh thản tại nhà riêng ở Maui, Hawaii vào thứ Bảy. Nguyên nhân cái chết chưa được tiết lộ, nhưng có thông tin cho rằng lúc đó anh đang được gia đình bao bọc.

Với nỗi buồn sâu sắc, chúng tôi thông báo về sự ra đi thanh thản của người chồng, người cha và ông nội yêu quý của chúng tôi, Kris Kristofferson, vào ngày 28 tháng 9 tại quê nhà. Chúng tôi cảm thấy vô cùng may mắn vì đã trải qua thời gian bên anh ấy. Chúng tôi đánh giá cao tình yêu và tình cảm của bạn dành cho anh ấy trong suốt những năm qua. Khi bạn nhìn thấy cầu vồng, hãy nhớ rằng nụ cười của anh ấy đang chiếu xuống chúng ta. Tin nhắn này được chia sẻ thay mặt cho vợ anh, Lisa; các con của ông là Tracy, Kris Jr., Casey, Jesse, Jody, John, Kelly và Blake; và các cháu của ông.

Kyle Young, người đứng đầu Bảo tàng và Đại sảnh Danh vọng Âm nhạc Đồng quê, nói rằng Kris Kristofferson cảm nhận sâu sắc rằng sự sáng tạo là một món quà thần thánh, và những ai coi thường hoặc làm chệch hướng một tài năng thiêng liêng như vậy sẽ phải chịu thất bại và đau khổ. Ông ủng hộ rằng một cuộc đời cống hiến cho trí tuệ thể hiện tâm hồn, và ông đã tạo ra một khối lượng công việc đáng chú ý không chỉ vang vọng tâm hồn ông mà còn cả tâm hồn chúng ta. Kris ngưỡng mộ những nhân vật như Muhammad Ali, William Blake và Hank Williams – lần lượt là võ sĩ quyền anh, nhà thơ và nhạc sĩ – và sống cuộc đời của mình theo các giá trị của họ, để lại một di sản cao quý, dũng cảm và có sức ảnh hưởng lớn đối với họ.

Vào thời điểm Kris Kristofferson đạt được thành công lớn, anh ấy đã làm việc trong nền âm nhạc Nashville được vài năm, sản xuất một số bài hát thành công vừa phải. Những giai điệu của ông như “For the Good Times” (do Ray Price trình diễn năm 1970), “Sunday Morning Coming Down” (do Johnny Cash hát năm 1970) và “Help Me Make It Through the Night” (do Sammi Smith thu âm năm 1971). ) đều đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng quốc gia. Điều thú vị là bài hát “Me and Bobby McGee” của Kristofferson đã trở thành một bản hit hàng đầu đối với người tình cũ của anh, Janis Joplin, sau khi cô qua đời vào năm 1971.

Đối với bốn album đầu tiên của mình trên Monument Records, anh ấy đã thể hiện phong cách thanh nhạc thô sơ, hoang sơ và những sáng tác gợi nhớ đến đất nước ngoài vòng pháp luật thời kỳ đầu, vốn liên tục lọt vào top 10 của nhạc đồng quê. Trong số này, album “Jesus Was a Capricorn” năm 1972, với bản hit đồng quê số 1 “Tại sao tôi”, đã đứng đầu bảng xếp hạng LP đồng quê. Ông đã được trao ba giải Grammy; một cho ca khúc nhạc đồng quê hay nhất (“Help Me Make It Through the Night”) và hai cho ca khúc hợp tác với Rita Coolidge, người mà ông đã kết hôn từ năm 1973-80.

Trong tác phẩm nổi tiếng “Nhạc đồng quê, Hoa Kỳ”, Bill C. Malone nhận xét rằng lời bài hát của Kristofferson thường đề cập đến các chủ đề về sự cô độc, tách biệt và đau khổ. Tuy nhiên, họ cũng ca ngợi sự tự do và những mối liên hệ chân thực, đồng thời những chủ đề này được thể hiện bằng ngôn ngữ cá nhân, gợi cảm tương đối hiếm thấy trong nhạc đồng quê.

Vẻ quyến rũ giản dị và phong thái hấp dẫn của nhạc sĩ hoàn toàn phù hợp với các buổi chụp ảnh. Ban đầu, anh được công nhận trong bộ phim “Cisco Pike” năm 1972 của Bill L. Norton, trong đó anh đóng vai nhân vật chính, một nhạc sĩ người Los Angeles và buôn ma túy do một cảnh sát tham nhũng điều khiển (do Gene Hackman thủ vai). Bộ phim cũng kết hợp một số bài hát của Kristofferson vào nhạc nền.

Trong những năm 70, sự nghiệp điện ảnh của ông cất cánh. Anh đóng vai chính lãng mạn đối diện với Susan Anspach trong “Blume in Love” (1973) của Paul Mazursky và Ellen Burstyn trong “Alice Does not Live Here Anymore” của Martin Scorsese (1974). Năm 1977, anh chia sẻ sự chú ý với Barbra Streisand, giành giải Quả cầu vàng cho vai diễn một ngôi sao nhạc rock gặp rắc rối trong phiên bản làm lại thứ ba của “A Star is Born”.

Mặc dù gặp phải những khó khăn ở Hollywood, đặc biệt là một số vấn đề khét tiếng trong quá trình sản xuất, anh vẫn dính vào hai trường hợp đáng chú ý. Đầu tiên, anh làm việc cùng với James Coburn trong bộ phim Western “Pat Garrett and Billy the Kid” năm 1973 của Sam Peckinpah, nơi anh đóng vai một kẻ sống ngoài vòng pháp luật khét tiếng. Thật không may, bộ phim đã gây tai tiếng khi bị loại khỏi quyền kiểm soát của Peckinpah và được MGM biên tập lại. Sau đó, anh đóng vai chính trong “Convoy” (1978) của Peckinpah, một bộ phim chuyển thể từ bộ phim ăn khách theo chủ đề đài phát thanh CB của CW McCall; tuy nhiên, tuy bộ phim thành công về mặt tài chính nhưng diễn xuất của anh lại nhận được nhiều đánh giá không tốt.

Sau vai diễn trong bộ phim Viễn Tây “Cổng trời” năm 1980 của Michael Cimino, sự nghiệp diễn xuất của Kristofferson không hoàn toàn hồi phục. Bộ phim bị cản trở bởi những tin đồn về vấn đề kinh phí và phong cách đạo diễn khắt khe của Cimino trên phim trường. Khi phát hành, nó đã nhận được những đánh giá không tốt và nhanh chóng bị rút khỏi rạp để biên tập lại; United Artists (đã được bán cho MGM sau thảm họa này) tuyên bố thua lỗ chưa đầy một tuần sau khi công chiếu. Tiêu đề của bộ phim gần như đồng nghĩa với sự xa hoa và kiêu ngạo của Hollywood.

Là một người hâm mộ tận tâm, tôi luôn đứng vững để bảo vệ “Cổng Thiên Đường”, một bộ phim ban đầu phải đối mặt với những lời chỉ trích gay gắt nhưng cuối cùng đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2012 trong bản phát hành video gia đình của Bộ sưu tập Tiêu chí, tôi bày tỏ niềm tin rằng cả Michael và kiệt tác của anh ấy đều xứng đáng nhận được nhiều hơn những gì họ có được. Theo tôi, bộ phim xứng đáng được công nhận là một tác phẩm nghệ thuật chứ không chỉ là một dự án kinh tế thất bại khác.

Vào những năm 80, anh dần tìm lại được bước tiến chuyên nghiệp của mình. Hợp tác với Willie Nelson, người đã phát hành một album ăn khách gồm các bài hát của Kristofferson vào năm 1979, anh ấy đã xuất hiện cùng anh ấy trong bộ phim “Songwriter” năm 1984 của Alan Rudolph. Nhạc nền chung của họ cho bộ phim đã giành được đề cử Giải Oscar.

Năm 1985, siêu nhóm nhạc đồng quê có tên Highwaymen được thành lập bởi Kristofferson, Nelson, Johnny Cash và Waylon Jennings với album “Highwayman”. Album này đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng quốc gia. Qua nhiều năm, họ đã phát hành thêm hai album thành công vào năm 1990 và 1995.

Sự nghiệp diễn xuất điện ảnh và truyền hình của anh tiến triển đều đặn, ngay cả khi chỉ bao gồm những phần nhỏ hơn; cuối cùng, anh ấy đã tích lũy được hơn 100 buổi biểu diễn. Năm 1996, anh nhận được nhiều lời chỉ trích tích cực nhờ vai diễn cảnh sát trưởng Texas độc ác trong “Lone Star” của John Sayles. Năm 1998, anh bắt đầu đóng một loạt ba vai Abraham Whistler, thợ săn ma cà rồng, cùng với Wesley Snipes trong bộ phim chuyển thể từ truyện tranh “Blade” thành công.

Sau khi tách khỏi Monument vào những năm 80, Kristofferson không thường xuyên phát hành đĩa hát solo. Tuy nhiên, anh đã nhận được những đánh giá ấn tượng cho ba album sau này – “A Moment of Forever” (1995), “This Old Road” (2006) và “Closer to the Bone” (2009) – đều do Don Was đồng sản xuất. Năm 2013, anh tự phát hành “Feeling Mortal” trên hãng thu âm riêng của mình, KK Records.

Năm 2004, Kristofferson được vinh danh vào Đại sảnh Danh vọng Âm nhạc Đồng quê, và năm 2015, anh được tổ chức Giải Grammy vinh danh với Giải thưởng Thành tựu trọn đời.

Trong lễ trao giải sau đó, người bạn đương thời và cũng là bạn của anh, Rodney Crowell, đã viết rằng Kristofferson đã thiết lập một phong cách kể chuyện trong nhạc đồng quê kết hợp giữa trí thông minh, sự hóm hỉnh, tài hùng biện cảm động, khao khát tinh thần, tính dễ bị tổn thương của nam giới và một chút gợi cảm – thậm chí cả khêu gợi.

Ông sinh ngày 2 tháng 6 năm 1936 tại Brownsville, Texas. Cha của ông là một sĩ quan chuyên nghiệp của Quân đoàn Không quân và Không quân, gia đình ông thường xuyên di chuyển. Anh học trung học ở San Mateo, California, nơi anh chứng tỏ mình vừa là một học sinh giỏi vừa là một vận động viên tài năng. Anh tốt nghiệp hạng ưu với bằng tiếng Anh tại Cao đẳng Pomona và theo học tại Đại học Oxford ở Anh với tư cách là Học giả Rhodes.

Ở Anh, Kris Carson đã lập kỷ lục đầu tiên với tên Kristofferson. Khi trở về Mỹ, anh được gia đình thuyết phục gia nhập quân đội và thăng cấp trở thành cơ trưởng có thể lái trực thăng. Ngay trước khi bắt đầu công việc giảng dạy tiếng Anh tại West Point, anh đã quyết định rời quân ngũ. Năm 1965, ông chuyển đến Nashville để tập trung hoàn toàn vào sự nghiệp âm nhạc của mình. Gia đình anh sau đó cắt đứt quan hệ với anh.

Trong bốn năm, Kristofferson đã trau dồi kỹ năng của mình ở Thành phố Âm nhạc, cân bằng vai trò phi công trực thăng thương mại với nhiệm vụ dọn dẹp tại studio địa phương của Columbia Records. Chính tại đây, người ta cho rằng anh đã gặp Bob Dylan, bạn diễn tương lai của “Pat Garrett”, người đang ở thị trấn thu âm album mang tính biểu tượng “Blonde On Blonde”. Việc thuyết phục một nhân vật nổi bật trong làng nhạc đồng quê chú ý đến các bài hát của anh ấy là một thách thức, nhưng cuộc gặp gỡ này đã trở thành một câu chuyện nổi tiếng trong văn hóa dân gian Nashville.

Sau này, Johnny Cash hồi tưởng lại một trường hợp: “Tôi đã không để ý nhiều đến họ cho đến một ngày, anh ấy đáp trực thăng của Lực lượng Vệ binh Quốc gia xuống khu vườn của chúng tôi. Tôi đang chợp mắt thì June kêu lên: ‘Ai đó đã hạ cánh một chiếc trực thăng. trong sân của chúng ta! Trước đây chúng đã đến từ đường cái; bây giờ chúng đang đến từ trên trời!’ Khi tôi ngẩng đầu lên, Kris đang bước ra từ một chiếc trực thăng, một tay cầm chai bia và tay kia cầm một cuộn băng.

Trong “The Johnny Cash Show”, “Sunday Morning Coming Down” của Kristofferson đã mang lại thành công đáng kể cho người viết kịch bản, đánh dấu một trong những hit lớn đầu tiên của anh. Bài hát này sau đó đã được Hiệp hội Âm nhạc Đồng quê công nhận là ‘Bài hát của năm’. Đáng chú ý, Kristofferson đã nhận được giải thưởng này với màn xuất hiện trên truyền hình được công bố rộng rãi nhưng có phần nhếch nhác.

Nổi tiếng là một trong những tài năng sáng tác hàng đầu của quốc gia, với những bản cover nổi tiếng của các nghệ sĩ như Ray Stevens, Bobby Bare, Roger Miller và Waylon Jennings, anh đã ký được hợp đồng dài hạn với Monument Records. Album đầu tiên của anh ấy “Kristofferson” ban đầu bán kém, nhưng nó đã đạt vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng đồng quê vào năm 1971 sau quyết định của hãng đổi tên bộ sưu tập “Me and Bobby McGee”, tận dụng sự thể hiện thành công của bài hát tương tự của Joplin.

Trước khi thuật ngữ “ngoài vòng pháp luật” được sử dụng rộng rãi trong nhạc đồng quê, Kristofferson đã liên tục xếp 8 album vào top 25 trong suốt thập niên 70. Sự pha trộn độc đáo giữa sức lôi cuốn thoải mái và chút nguy hiểm đã giúp anh có được vai chính trong nhiều bộ phim Hollywood khác nhau như The Sailor Who Fell From Grace With the Sea và Semi-Tough.

Bất chấp thành tích ảm đạm của Heaven’s Gate tại phòng vé, việc sử dụng rượu và ma túy quá mức đã gây tổn hại nặng nề đến cuộc sống cá nhân của nghệ sĩ. Năm 2008, anh tâm sự với The Guardian rằng sau khi chia tay Coolidge, một bác sĩ đã khuyên anh rằng gan của anh to như một quả bóng đá và nếu không ngừng uống rượu, rất có thể anh sẽ không chống nổi cơn nghiện.

Từ những năm 1980 trở đi, sự nghiệp âm nhạc và điện ảnh của ông thăng tiến liên tục, mặc dù không bùng nổ như thời kỳ nổi tiếng ban đầu. Thời gian trôi qua, anh chủ yếu tập trung vào diễn xuất nhưng vẫn duy trì các chuyến lưu diễn thường xuyên. Các album của anh cho Mercury Records, “Repossessing” (1986) và “Third World Warrior” (1990), mang quan điểm chính trị mạnh mẽ nghiêng về cánh tả.

Trong cuộc sống sau này của mình, Kristofferson đã gặp phải các vấn đề về trí nhớ, được chẩn đoán sai trong nhiều năm theo ông và gia đình. Ban đầu, anh ấy được thông báo rằng anh ấy có thể mắc chứng mất trí nhớ do bệnh Alzheimer hoặc đang phải đối mặt với hậu quả của những chấn thương ở đầu trong những ngày chơi bóng đá, bóng bầu dục và đấm bốc khi còn trẻ. Tuy nhiên, vào năm 2016, một bác sĩ xác nhận anh có kết quả xét nghiệm dương tính với bệnh Lyme.

Theo Lisa (vợ anh), anh đã sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị những căn bệnh mà anh không thực sự mắc phải, tất cả đều có tác dụng phụ. Cô lưu ý rằng sức khỏe của anh ấy được cải thiện đáng kể khi anh ấy ngừng dùng thuốc vì những tình trạng không liên quan. Chris Gantry, một người bạn, mô tả sự thay đổi này giống như việc Lazarus sống lại từ cõi chết và tái sinh một lần nữa, theo báo cáo của Closer Weekly.

2024-09-30 01:47